[Theravada] Tạng Luật - Tam Tạng Song Ngữ Pali-Việt (Trọn Bộ 9 Quyển, Khổ Lớn)

Giỏ hàng

 

Chia sẻ

Facebook Twitter Google Buzz Link hay
Giá bán: 2.700.000 VNĐ

Tạng Luật (Vinayapițaka) thuộc về Tam Tạng (Tipitaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó chủ yếu đề cập đến tỳ khưu, một phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.

VINAYAPIȚAKA (Tạng Luật – 9 Quyển) được chia làm 3 phần chính: Suttavibhanga, Khandhaka, và Parivāra.

I. SUTTAVIBHANGA (Phân Tích Giới Bổn – 3 Quyển 1, 2, 3): trình bày về giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu gồm có 227 điều và của tỳ khưu ni gồm có 311 điều. Suttavibhanga được chia làm hai:

I. 1. Pārājikapāļi (Bộ Pārājikapāļi): Mở đầu là Chương Verañjā giới thiệu việc ngài Sāriputta thinh cầu đức Phật quy định giới ở xứ Verañjā. Kế đến là các chương ghi lại các điều học theo thứ tự:

- 4 Pārājika (bất cộng trụ)

- 13 Sanghādisesa (tăng tàng)

- 2 Aniyata (bất định)

- 30 Nissaggiya Pācittiya (ưng xả đối trị)

I. 2. Pācittiyapāļi (Bộ Pācittiyapāļi): Nội dung bộ này gồm có:

- 92 Pācittiya (ưng đối trị)

- 4 Pāțidesanīya (ưng phát lộ)

- 75 Sekhiyā dhammā (ưng học pháp)

- 7 Adhikaraņasamathā dhammā (các pháp dàn xếp tranh tụng)

- Bhikkhunīvibhanga (Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni).

II. KHANDHAKA (Hợp Phần – 4 Quyển 4, 5, 6, 7): gồm các vấn đề có liên quan đã được sắp xếp thành từng chương. Khandhaka được chia làm hai:

II. 1. Mahāvagga (Đại Phẩm): gồm 10 chương, mở đầu là sự chứng ngộ đạo quả của đức Phật, kế đến là các nhiệm vụ quan trọng của các tỳ khưu như lễ xuất gia, lễ Uposatha (Bố Tát), việc an cư mùa mưa, lễ Pavāraņā (Tự Tứ), v.v...

II. 2. Cullavagga (Tiểu Phẩm): gồm 12 chương đề cập đến việc hành xử các tỳ khưu phạm tội, giải quyết các sự tranh tụng, việc chia rẽ hội chúng, và các vấn đề khác liên quan đến đời sống xuất gia. Đặc biệt chương 10 đề cập việc xuất gia của tỳ khưu ni và hai chương cuối 11 và 12 nói về hai lần kết tập Tam Tạng đầu tiên ở Ấn Độ.

III. PARIVĀRA (Tập Yếu – 2 Quyển 8, 9): phân tích về Giới và Luật theo các tiêu đề và được trình bày dưới dạng vấn đáp, có thể được xem như là cuốn cẩm nang hướng dẫn việc hành xử Luật.

Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)

=========

>> [ Kinh Phật ]

>> Tủ sách Phật Giáo

>> Sách Xưa

>> Tủ sách Triết học

>> Sách Thầy Viên Minh

>> Phật Giáo Nguyên Thủy

>Vật Phẩm Phật Giáo (New)

Cảo thơm lần giở trước đèn

Nhiều sách cổ, quý hiếm, được tái tạo bảo tồn.

Sách của Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Lê Mạnh Thát, Nghiêm Xuân Tú, Hoà Thượng Thích Minh Châu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh,...

 
 

Sản phẩm liên quan

 

Mô tả sản phẩm

TẠNG LUẬT trọn bộ 9 quyển, khổ lớn, gồm:
1- Phân tích giới tỳ khưu 1
2- Phân tích giới tỳ khưu 2
3- Phân tích giới tỳ khưu ni
4- Đại phẩm 1
5- Đại phẩm 2
6- Tiểu phẩm 1
7- Tiểu phẩm 2
8- Tập yếu 1
9- Tập yếu 2

Trong việc nghiên cứu Tam Tạng Pāli, các bộ Chú Giải Atthakathā liên quan cũng cần được xem xét để có thể hiểu đúng những điều đã được kết tập thuộc về Chánh Tạng; ngoài ra còn có các bộ Sở Giải Țīkā phân tích về những điểm cần giải thích thêm hoặc chưa được giải thích trong Chú Giải Atthakathā, sau đó mới nói đến các bộ sách được soạn thảo theo chuyên đề. Theo tinh thần đó, trong khi nghiên cứu về Tạng Luật, chúng tôi đã tham khảo và hiểu theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa ở bộ Chú Giải Samantapāsādikā. Ngài Buddhaghosa được xem là nhà Chú Giải Sư vĩ đại, vĩ đại vì ngài là người đầu tiên tổng hợp lại các bộ Chú Giải đã có trước, cũng có thể do số lượng tài liệu ngài đã thực hiện là nhiều hơn so với các nhà chú giải khác, cũng có thể vì ngài đã soạn nên bộ sách nổi tiếng Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) được xem như đã cô đọng lại những gì tinh hoa của lời Phật dạy. Ngài Buddhaghosa đã hoàn tất phần chú giải về Tạng Luật và Tạng Diệu Pháp. Về Tạng Kinh, ngài đã hoàn tất phần chú giải của Kinh Trường Bộ, Kinh Trung Bộ, Kinh Tương Ưng Bộ, Kinh Tăng Chi Bộ, và một số thuộc về Kinh Tiểu Bộ. Cuộc đời của ngài chỉ được ghi lại ngắn gọn trong nhiều tài liệu, văn bản cổ nhất được biết đến là Mahāvamsa (chương 37) là bộ sử ký của xứ Sri Lanka được ghi lại bằng ngôn ngữ Pāli. Ngài Buddhaghosa sanh ở vùng lân cận của Bodh Gaya (nơi đức Phật thành đạo) ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Ngài xuất thân dòng dõi Bà-la- môn và thông thạo ba bộ Vệ Đà, lúc còn thanh niên thường đi đó đây để tranh luận, do bị thua ngài Revata nên đã xin xuất gia và trở thành tỷ khưu. Khi thấy được ước nguyện của người học trò về việc soạn thảo các bộ chú giải Tam Tạng, ngài Revata đã gợi ý nên sang đảo Lankā (Sri Lanka ngày nay) vì toàn bộ kinh điển và chú giải được ngài Mahinda đem sang truyền giáo ở đó (thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch) vẫn được lưu truyền và phát triển. Tại đảo Lankā, trước tiên ngài Buddhaghosa đã soạn bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) rồi trình lên các ngài trưởng lão ở Mahāvihāra (Đại Tự) để chứng tỏ khả năng và sau đó đã được phép sử dụng các tài liệu lưu trữ trong tu viện phần nhiều bằng tiếng địa phương (ngôn ngữ Sīhaļa) để thực hiện việc tổng hợp lại các bộ chú giải và dịch sang ngôn ngữ của xứ Magadha (māgadhānam niruttiyā) nhằm đem lại lợi ích cho tất cả thế gian (ngôn ngữ sử dụng trong Tipitaka (Tam Tạng) mới được các nhà học giả phương Tây gọi là ngôn ngữ Pāli vào thời gian sau này). Sau khi thực hiện các công trình trên, ngài Buddhaghosa đã rời đảo Lankã để trở về đảnh lễ cội Đại Bồ Đề ở quê hương. Nghe đâu, có các tài liệu khác cho rằng ngài Buddhaghosa qua đời ở Miến Điện, có tài liệu nói ở Cam-pu-chia.

Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, có một số điều cần lưu ý như sau: Về phương diện từ ngữ có tính cách chuyên môn như tên các điều học pārājika, sanghādisesa, tên của lễ Uposatha, Pavāraņā, v.v... chúng tôi đã giữ nguyên từ Pāli. Việc làm này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Chúng tôi ngại việc sáng tạo thêm tên gọi mới e rằng có thể làm rối trí những độc giả vốn đã có sự hiểu biết về Luật của Phật Giáo. Hơn nữa, việc biết và nhớ được một số từ có tính cách chuyên môn của ngôn ngữ này sẽ tiện cho công việc trao đổi kiến thức tránh sự nhầm lẫn, nhất là lúc tiếp xúc với các tu sĩ hoặc học giả người ngoại quốc. Chúng tôi cũng tránh việc sử dụng theo thói quen một số từ được ghi lại theo âm của tiếng Hán xét rằng không có lợi ích ví dụ như: ba-la-di (pārājika), tăng-già-bà-thi-sa (sanghādisesa), đột-kiết-la (dukkața), bố- tát (uposatha), Xá Lợi Phất (Sāriputta), Xa Nặc (Channa), v.v...; hoặc tránh sự vay mượn tiếng Hán khó hiểu ví dụ như từ Tự Tứ (pavāraņā), v.v... Cũng có một số từ được ghi bằng tiếng Pāli do chúng tôi không tìm ra được nghĩa của chúng như trường hợp tên các loại thảo mộc.

Ngoài ra, chúng tôi cũng mạo muội Việt hóa một số từ Hán đã trở nên quá quen thuộc nghĩ rằng khó có sự thay đổi trong tương lai, ví dụ như từ Thế Tôn (Bhagavā), tỳ khưu (bhikkhu), tỳ khưu ni (bhikkhunī), sa di (sāmaņera), v.v... Riêng từ tỳ khưu (hay tỷ khưu, tỳ kheo, tỷ kheo) đều được âm từ ngôn ngữ Sanskrit là từ bhikșu hay Pāli là từ bhikkhu. Về từ tiếng Việt có liên quan đến phái nữ xuất gia như ni cô, ni sư, v.v... có thể đã được du nhập vào tiếng Việt từ tiếp vĩ ngữ “ni” trong bhikșuņi hoặc bhikkhunī.

Thêm vào đó, chúng tôi cũng đã sử dụng dạng chữ nghiêng cho một số câu hoặc đoạn văn nhằm gợi sự chú ý của người đọc về tầm quan trọng của ý nghĩa hoặc về tính chất thực dụng của chúng. Riêng về các câu kệ ngôn, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc.

Vê văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāļi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.

Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.

Kính bút,

Ngày 15 tháng 01 năm 2009

Tỳ Khưu Indacanda (Trương đình Dũng)

Thông tin thêm

=*=*=*=*=*=*=*=*=

Sách cũng có bán tại DAVIBOOKS - SÁCH ĐẤT VIỆT:

- A30/9 QL50, Bình Hưng, Bình Chánh, TP.HCM (Đối diện Điện Máy Xanh; cách bến xe Q8 150m hướng về phía đường Nguyễn Văn Linh)

- SĐT: 028 6265 2039

DAVIBOOKS đem đến cho Quý độc giả những bộ sách mới nhất, nhanh nhất, và chất lượng nhất.

Sách giảm giá

Nhận xét sản phẩm

Không tìm thấy nhận xét nào cho sản phẩm này
 

Viết nhận xét

Vui lòng đăng nhập để đăng nhận xét